Non 80 năm về trước, hồi đó ở tại Gò Mả Lạn này xóm nhà đông đúc hơn bây giờ. Họ sống về nghề ruộng rẫy, giăng câu, bắt rắn. Giặc Tây đến, chúng đóng binh ở ngoài huyện Kiên Giang. Binh sĩ của ông Nguyễn Trung Trực lén kéo về Châu Thành để công kích. Dân chúng nghe tiếng súng, nửa mừng nửa sợ. Tới một đêm đó, nhiều loạt súng nổ chát chúa ngay đầu xóm, tại Đìa Gừa.
Không ai dám bước khỏi nhà. Họ đoán rằng có người bị giết và tiếng súng sát nhơn nọ là của Tây. Sáng hôm sau, vài người bạo dạn ra dò xét. Họ kéo mấy cái thây người dưới đìa lên, chôn cất kỹ lưỡng gần bờ thềm.
Từ đó, đêm nào đêm nấy giống nhau. Cứ quá nửa đêm dân chúng phải cắn răng, nuốt lệ mà nghe súng nổ. Khi thì nghe tiếng rên rú, khi thì nghe tiếng chim bay.
Nước dưới đìa lần lần đen ngầu, hôi tanh. Cỏ bên bờ ngày một cao vì dân làng không còn ai lui tới để gánh nước như trước. Trong khi đó, con đường từ thềm đìa ra lộ cái trở nên mòn lẵn vì dấu chân của bọn đao phủ Tây tà và của những nghĩa quân, dân lương vô tội từ nơi xa lạ dẫn tới.
Dân làng quá đỗi hiền lương, hằng đêm, họ thức để chờ nghe tiếng súng đầu tiên nổ ngoài bờ giếng. Rồi họ cúi đầu lầm thầm đọc kinh vãng sanh, cầu nguyện cho người quá cố.
Trưa đó ngày mùng bảy tháng Chạp, bất thường giặc kéo nhau đến bờ Đìa Gừa. Chúng dừng lại nhìn xuống Đìa Gừa, đếm mấy gò mả xung quanh. Nào ai dám hó hé! Chập sau, chúng rút lui. Một thằng bé chăn trâu được may mắn núp ở gần bờ đìa khi nãy. Nó về xóm thuật lại:
- Tui thấy ông Tây này cười, ông kia la hét, ông Tây nọ gật đầu. Mấy ổng dòm vô xóm mình...
Điềm lành, điềm dữ hay là không có điềm gì hết? Không ai đoán trúng cả. Vì đó là điềm dữ, nhưng dữ quá mức tưởng tượng của họ.
Đêm ấy cả xóm đều bị bao vây.
Nhờ ngủ ngoài chuồng trâu, đứa bé chạy thoát được. Nó qua xóm kế bên cầu cứu trong khi súng nổ liên hồi, lửa bốc cháy.
Đầu canh năm, tiếng súng vẫn còn thưa thớt. Mặt trời gần mọc, chừng đó dân làng kế bên mới dám đi qua cứu giúp.
Người chết quá nhiều. Người còn sống quá ít. Làm sao mà chôn? Ban đầu còn bó thây bằng chiếu, mỗi hầm chôn một người. Sau cùng, cứ chôn chung một hầm, đủ già trẻ bé lớn. Khiêng nhiều chuyến quá sanh ra mệt mỏi! Họ không đặt xác chết lên tấm ván để khiêng. Họ khiêng bằng võng, đặt hai xác chết trên một võng, người trở đầu phía trước, người trở đầu phía sau.
- Đúng vậy! Hồi đó hai người nằm một võng, theo kiểu con nít ngủ trưa như bây giờ thiên hạ đưa con.
Đêm về khuya, chai rượu cạn dần. Đứa bé chăn trâu thuở trước là ông Tư Đạt ở Gò Mả Lạn buổi này, nói tiếp:
- Lâu quá rồi! Thiên hạ chết oan! Cả xóm chết giống nhau. Không một người khóc, không một miếng khăn tang. Cả tháng sau, quạ còn bay đen trời như tàn nhà cháy... Tôi không sợ ma, nhờ đó mà ít gặp ma. Vậy mà không hiểu can cớ gì buổi trưa đó tôi gặp họ.
- Ban ngày hả ông?
Ông Tư Đạt nói:
- Chánh hiệu là... ban ngày. Đi gặt về, dọc đường tôi ghé lại bờ Đìa Gừa. Thấy nước trong quá, tôi nhảy xuống tắm rồi ngắt một cọng bông súng, nhai vô miệng cho mát. Tôi nhớ rõ: cọng bông súng dài lắm. Nhai một hồi, bỗng nhiên thấy một ông già hiện ra, đâu mặt với tôi, miệng ổng thì nhai đầu kia của cọng bông súng. Sợ quá, tôi nhả ra nhưng không được. Hàm răng của tôi cứng lại rồi... đánh bùa cạp. Sau rốt, ông già nọ nhai lần cọng bông súng đến gần mặt tôi, hai mặt đụng nhau, sát rạt, lạnh ngắt.
Ông già nọ hỏi tôi:
- Cái thằng Đạt chăn trâu! Nhớ ta đây không?
- Ông là ai?
- Bà con mà!